SỞ THỦY PHI CƠ Ở HỒ TÂY VÀ CÂU CHUYỆN CÔ SON

 SỞ THỦY PHI CƠ Ở HỒ TÂY VÀ CÂU CHUYỆN CÔ SON

                            *****

Viet Cuong Sarraut khảo cứu và biên tập.


        Nằm ở phía Nam hồ Tây có một ngôi làng cổ tên gốc là Thụy Chương thuộc phường Thụy Chương, huyện Quảng Đức, kinh thành Thăng Long thời Lê. Đến đầu thế kỷ XIX phường Thụy Chương thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, năm 1848 vì tránh húy vua Thiệu Trị, làng phải đổi tên là Thụy Khuê.

        Dưới thời Pháp thuộc có nhiều công trình được xây dựng tại khu vực làng Thụy Khuê như: vườn ươm cây Laforge, trường trung học Bảo hộ (Lycee du Protectorat nay là trường THPT Chu Văn An), nhà máy Tầu điện, nhà máy thuộc da.... Nhưng rất ít tài liệu nói đến ở đây đã từng có một sở Thủy phi cơ do quân đội Pháp xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ XX mặc dù dấu tích của sở này vẫn còn hiện hữu bên bờ hồ Tây.

        Thủy phi cơ là một loại máy bay nhỏ có cánh cố định, có khả năng hạ và cất cánh trên mặt nước.Thủy phi cơ xuất hiện nhiều ở Hà Nội trong thời kỳ này, phục vụ cho mục đích dân sự và quân sự.

        Trong lịch sử ngành hàng không thế giới, thủy phi cơ là một trong những phương tiện giao thông được người ta quan tâm rất sớm, vì nó khắc phục được nhu cầu rất lớn về hạ tầng. Thủy phi cơ có thể hạ cánh, cất cánh trên mặt nước mà không cần có đường băng dài chạy đà khi cất cánh và hạ cánh là một ưu điểm khác biệt với máy bay thông thường. Hơn nữa là nó khai thác được tiềm năng sử dụng diện tích mặt nước sông, hồ, biển mà Việt Nam ta có ưu thế. 

         Việc người Pháp chọn Hồ Tây đặt Sở Thủy phi cơ là hợp lý bởi mặt hồ rộng, thuận tiện cho việc cất và hạ cánh lại nằm ngay trung tâm đô thị, từ đó đi vào khu vực cơ quan đầu não rất gần, đó là phủ Toàn quyền Đông Dương.

        Sở Thủy phi cơ, thực chất nó là một sân bay, bao gồm một hang ga là một tòa nhà kho trên bờ, nằm ở khu vực sân vận động của trường Chu Văn An hiện nay, một dãy nhà rất cao làm nơi bảo dưỡng, nằm ở khu vực Hãng phim truyện ngày nay. Cách nơi nhà bảo dưỡng không xa là nhà ga. Nhà ga rộng chừng vài chục mét vuông trên một doi đất nhô ra hồ được dựng trên mặt nước bởi một dàn khung bê tông, xung quanh là kính để khách có thể bao quát không gian hồ. 

        Sau Tiếp quản Hà Nội năm 1954, nhà và đất đai của Sở Thủy phi cơ do nhà nước quản lý. Sau đó nhà nước giao cho Xí nghiệp phim truyện Việt Nam sử dụng làm trụ sở, năm 1989 đổi tên thành Hãng Phim truyện Việt Nam.

        Kho đạo cụ của Hãng phim chính là nhà bảo dưỡng thủy phi cơ trước kia với chiếc cầu thang lên tầng hai đã ọp ẹp như muốn đổ sập.

        Khi Hà Nội làm con đường vòng quanh hồ Tây, đoạn đường qua phía sau của hãng phim được đặt tên là Nguyễn Đình Thi, thì phần hậu của hãng phim lại trở thành mặt tiền có không gian đẹp hơn hẳn mặt phố Thụy Khuê. 

        Nhưng câu chuyện về thủy phi cơ thời kỳ này dường như vẫn rất mờ nhạt, dù rằng nhà ga vẫn hiện hữu và có lúc đã có người đề xuất đập phá nó…

        Từ thập niên 90 thế kỷ XX, khi mà ngành công nghệ truyền hình Việt Nam lên ngôi, khán giả quay lưng với Điện ảnh thì ngành sản xuất phim điện ảnh nhựa bị bóp chết, Hãng phim truyện Việt Nam cũng không phải là ngoai lệ. Cơ sở của Hãng phim là nơi cho thuê để tổ chức các loại hình dịch vụ hội nghị, tiệc tùng, đám cưới. Nhà ga Thủy phi cơ trở thành một nhà hàng ăn uống, nhậu nhẹt có tên là Vọng Ba Lầu.

        Vào khoảng những năm cuối thế kỷ XX, dân chơi ở Hà Nội vẫn rủ nhau đến nhà hàng Vọng Ba Lầu, nằm ở sát Hồ Tây, để thưởng thức hai món nổi tiếng là ốc và tôm Hồ Tây, đồng thời để thở hít không khí trong lành của hồ. Do không có địa chỉ cụ thể cho nên thực khách vẫn chỉ cho nhau đường đến đây rằng: Đi thẳng vào ngõ 4 Thụy Khuê, đi qua Hãng phim truyện Việt Nam, ra đến đường ven hồ Tây thấy cái nhà xinh xinh được xây trên mặt nước thì đó chính là nhà hàng Vọng Ba Lầu. Nhiều năm trôi qua như thế, mọi người vẫn không để ý nên không hề biết rằng, mình đang ngồi ăn trên một dấu tích có từ thời Pháp thuộc, gắn liền với một sân bay dành riêng cho thủy phi cơ. 

        Lúc đó, nhà ga thủy phi cơ này là một trong những địa điểm đẹp ở Hồ Tây. Nhiều người đến đây ngắm cảnh, câu cá, chụp ảnh kỷ niệm…

        Khoảng năm 2007- 2008 gì đó, do có vụ kiện cáo om xòm giữa ban quản lý Hồ Tây và Hãng phim, nhà hàng Vọng Ba Lâu phải đóng cửa. Hãng phim đã gắn lên nhà ga Thủy phi cơ tấm biển" Phòng truyền thống" của Điện ảnh Việt Nam.


       Ngược dòng thời gian, cách đây khoảng 200 năm, dưới triều vua Minh Mạng, tại chính khu vực sở Thủy phi cơ này đã xẩy ra một câu chuyện rất thương tâm. Số là khu vực này là nơi cộng đồng người Chăm sinh sống gọi là Châu Lâm viện. Ở đây còn có một ngôi chùa để cho người Chăm thực hiện nghi lễ thờ cúng theo tín ngưỡng của dân tộc mình gọi là chùa Châu Lâm, nhưng tên dân gian gọi là chùa Bà Đanh. Chính nơi đây, một gia đình đã sinh ra một cô con gái mà lọt lòng môi đã đỏ như son nên họ đặt tên con là Son. Có thể vợ chồng này gốc Chăm. Càng lớn Son càng nõn nà, ở tuổi trăng tròn, Son nổi tiếng khắp Hà Nội vì xinh đẹp. Nhiều gia đình giàu có nhờ mai mối đánh tiếng cho Son về làm dâu nhưng cha mẹ Son chưa nhận lời, họ như muốn chờ ý trung nhân cho con gái có chỗ dựa ấm áp.

        Về phần Son, cô lại có cảm tình với một khóa sinh nghèo tên là Hồng. Hai người tình cờ gặp nhau trong lễ hội đầu Xuân của làng. Họ ngầm cảm mến nhau nhưng khóa Hồng không dám nhờ mai mối vì biết gia cảnh mình nghèo khó.

        Cũng thời gian này, triều đình Huế cho người đi khắp các vùng trong nước tuyển phi cho nhà vua. Theo lời đồn, bọn họ đến phường Thụy Chương và bất ngờ trước vẻ đẹp của Son. Thế là cô được ghi tên đầu trong danh sách mỹ nhân Bắc Hà.

        Bố mẹ cô mừng thầm vì con rơi vào nơi nhung lụa. Rồi Son rời xứ Bắc vào Huế. Mấy năm Son ở Huế, cha mẹ cô không có tin tức gì về con gái. Nhưng một hôm triều đình báo tin về Thụy Chương, Son mắc trọng tội phải trả về nguyên quán. Giấy trả về quê ghi cô mắc tội “Đạo khuy thánh thể, thiệt thị long nhan" có nghĩa là: Nhìn trộm mình thánh, nhìn trộm mặt rồng.

        Khi Son về đến nhà, cha mẹ hỏi chuyện, cô chỉ khóc, không dám trả lời. Hàng xóm thấy Son ở cung vua nay lại về nhà đã xì xào khiến cha mẹ cô ra đường phải cúi mặt, không dám nhìn ai. Mãi sau này, trong họ có người làm quan trong Huế cất công dò hỏi mới rõ ngọn nguồn. Thì ra, vua là người có tính đa nghi. Lệ là cung nữ được đến hầu chăn gối thì đêm ấy đều phải buộc dải lụa đen ngang mặt để che mắt, không được phép nhìn rõ mặt vua. Khi Son được vua vời, cô khấp khởi mừng thầm, sẽ đẻ con và được phong chức hậu. Nghĩ thế nên cô không kiềm chế được tính tò mò đã lén lút hé dải lụa che mắt ra nhìn. Và bất ngờ bị phát hiện, vua đã quy tội Son là “đại nghịch, bất kính” tức khắc truyền “bãi ngự”, sai làm giấy tờ cho về quê.

        Cung nữ bị thải coi như đồ bỏ đi vì quan địa phương không dám lấy, sợ đụng vào thứ từng là của vua. Còn khóa Hồng một thuở nay đã yên bề gia thất. Chàng biết chuyện, bụng nghĩ muốn nối lại thì Son cũng không thể vì cô cảm thấy bẽ bàng hổ thẹn, kể cả làm lẽ mọn. Chưa 30 tuổi nhưng Son dù không góa bụa cũng coi như góa bụa.

        Chán cuộc đời đen bạc và bất công, cô bỏ nhà ra doi đất trán khỉ ở Hồ Tây lập một cái am nhỏ thờ Phật, trồng hoa chờ ngày kết thúc cuộc đời buồn thảm của mình. Dân trong vùng gọi là am Cô Son với niềm thương cảm, xót xa. Sau khi cô Son mất, cái am vẫn còn, đến thập niên 20, khi quân đội Pháp xây Sở Thủy phi cơ họ đã phá am để làm nhà ga Thủy phi cơ.

        Vở chèo Cô Son được nhiều đoàn dàn dựng và diễn từ những năm 1960 cho đến hôm nay chính là dựa theo cốt chuyện này. 


        Lịch sử hàng không Việt Nam không nhắc tới sở thủy phi cơ này, chỉ thấy có trong các tài liệu của người Pháp. Trong cuốn " Lịch sử hàng không Đông Dương" cũng ghi chép tất sơ sài.

        Tôi mong nhận được thêm thông tin của quý vị để cùng hiểu rõ thêm về một phế tích của Sở Thủy phi cơ này.

                           ***

Nguồn tham khảo:  thethaovanhoa.vn ngày7/10/2019 và Hai Au Aviation ngày 24/3/2016 và nguoiduatin.vn